Bài văn mẫu hình tượng người lái đò sông Đà. Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập "Tùy bút sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một
- Tác phẩm được in trong tùy bút Sông Đà (1960). - Tác phẩm ra đời trong giai đoạn miền Bắc đang trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội và là kết quả trong chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc giữa cuộc kháng chiến chống Pháp. II.
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây Bắc trùng điệp mà đầy kỳ thú, tập Tùy bút sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước.
"Người lái đò sông Đà" là một áng văn trong tập tuỳ bút sông Đà (1960). Trong tác phẩm, hình tượng con sông Đà hiện lên vô cùng hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và lãng mạn. Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy
03w1kDZ. Nhà văn Nguyễn Tuân và tập tùy bút Sông giả Nguyễn bút “Sông Đà” và “Người lái đò sông Đà”.1. Tập tùy bút “Sông Đà”.2. Tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác giả Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân 1910 – 1987, quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Đến với văn chương từ những năm 20 của thế kỉ, Nguyễn Tuân đã thử bút qua nhiều thể loại thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng và cố gắng tìm kiếm thành công. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua… Trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân Nổi tiếng với những tác phẩm viết về chủ đề “xê dịch” Một chuyến đi, Thiếu quê hương,..; cái đẹp trong quá khứ Vang bóng một thời,..; hoặc cuộc sống trụy lạc Chiếc lư đồng mắt cua. Dù ở đề tài nào, ông cũng khao khát tìm kiếm, phát hiện và chiêm ngưỡng cái đẹp ẩn khuất trong cuộc sống. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một quan niệm sống của phương Tây, được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20 và được nhiều người tiếp nhận. Xê dịch có nghĩa là luôn luôn thay đổi, rất phù hợp với lý tưởng sống của tuổi trẻ, hoặc những người có lối sống tự do, thích khám phá. Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết “chủ nghĩa xê dịch” này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa Một chuyến đi. Không những “xê dịch” trên khoảng không gian địa lí, Nguyễn Tuân còn thực hiện “xê dịch” vượt thời gian lịch sử. Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân như Huấn Cao Chữ người tử tù. Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao Chiếc lư đồng mắt cua. Cũng như các nhà văn khác, thời kì này, Nguyễn Tuân chưa tìm thấy lý tưởng cách mạng và niềm tin hướng về tương lai. Ông đã rất nỗ lực vận động nhưng đành bất lực. Mỗi tác phẩm là một nỗi đau thương, quằn quại, bế tắc tột cùng, càng gắng gượng càng thấy mịt mù hơn. Ông chủ trương xê dịch là để thoát khỏi cái hiện thực tối tăm, tìm kiếm một nguồn sống mới mẻ an dưỡng tinh thần. Đôi khi ta thấy Nguyễn Tuân sa đà vào trụy lạc nhưng rồi ông sực tỉnh và thay đổi mình, tìm kiếm mình trong những giá trị thanh cao của tinh thần. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân sớm hòa nhập với cuộc sống mới. Ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước Tùy bút Sông Đà, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất Tùy bút kháng chiến, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là một nhà văn độc đáo, tài hoa và uyên bác. Ông luôn trân trọng những truyền thống văn hóa của dân tộc và có tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước và con người. Trong suốt thời gian hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã xó nhiều thể loại văn học khác nhau. Nhưng sở trường hơn cả vẫn là tùy bút. Với thể văn này, ngòi bút Nguyễn Tuân như được tung hoành, phóng túng, và bộc lộ đầy đủ nhất những nét tài hoa, uyên bác, cũng như cái “ngông” của mình Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Quá trình chuyển đổi phong cách, đề tài sáng tác trước và sau cách mạng diễn ra mạnh mẽ. Ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Ông chủ động tiếp nhận chủ nghĩa xê dịch là để tìm kiếm những cảm xúc mới mẻ cho ngòi bút. Bởi thế, văn của ông lúc nào cũng có những cảnh tượng phi thường, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội,… Dù đã thử bút trên nhiều thể loại nhưng Nguyễn Tuân vẫn có thế mạnh trong tùy bút rất phù hợp với phong cách tự do phóng túng của ông. Thiên nhiên trong tùy bút Nguyễn Tuân được miêu tả bằng một tình yêu trìu mến thiết tha và sự thấu hiểu sâu sắc, biểu lộ tinh tế và đọc đáo vẻ đẹp của sông núi, cỏ cây trên đất nước mình. Văn ông còn có giọng khinh bạc nhưng chủ yếu để ném nỗi giận dữ vào kẻ thù cướp nước với niềm căm hận tột cùng. Có thể khẳng định Nguyễn Tuân rất mực tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái Đẹp, ở góc độ mỹ thuật và tài hoa. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa; còn người lái đò như một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Với ngòi bút uyên bác, nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật, điện ảnh, văn học…để viết về con sông hung dữ và thơ mộng. Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, những hình ảnh giàu sức liên tưởng, bất ngờ và độc đáo sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh…. Người lái đò Sông Đà thể hiện rõ nét sở trường ở thể loại tùy bút của ngòi bút Nguyễn Tuân. Tùy bút “Sông Đà” và “Người lái đò sông Đà”. 1. Tập tùy bút “Sông Đà”. Tập Tùy bút Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của lòng người, tình người. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Nguyễn Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền vững. 2. Tùy bút “Người lái đò sông Đà”. 1. Hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng khai sinh ở huyện Cảnh Đông, Vân Nam , Trung Quốc và xin nhập tịch vào Việt Nam với tên gọi Bả Biên Giang hoặc Ly Tiên, ngày nay gọi chung là Sông Đà. Sông Đà cũng được miêu tả có tính cách độc đáo vừa hung bạo, dữ dội, vừa rất thơ mộng, trữ tình. Tính cách hung bạo có địa hình hiểm trở ghê gớm hút nước sâu thẳm, ghềnh thác hiểm trở, vách núi vút cao đầy ghê rợn,.. sóng nước cuồn cuộn ngày đêm gầm thét, Sông Đà ẩn chứa trong mình những nguy hiểm tột cùng của đội quân hùng mạnh nước và đá. Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa Nhìn từ trên cao, hình dáng con sông Đà giống như một dải lụa mềm mại vắt qua núi rừng, như mái tóc của người thiếu nữ mượt mà thả dài. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa, lúc xanh như ngọc bích, lúc lại đỏ lừ như da mặt người bầm đi vì rượu, lúc trong vắt như nhìn thấy đáy. Cảnh sắc hai bên bờ hiền hòa, hoang sơ và tĩnh lặng như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích xưa. Hình ảnh thiên nhiên sông Đà đi vào lòng người, khơi gợi mãnh liệt cảm xúc bâng khuân, xao xuyến như được gặp lại cố nhân, như đắm mình vào không khí thơ mộng, cổ kính của Đường thi, như bất chợt được gặp một người tình chưa quen biết. Tất cả gợi cho ta một cảm giác trác việt, hiếm ó trên đời. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận sông Đà như một tuyệt tác của tự nhiên, một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Ca ngợi vẻ đẹp con sông Đà thể hiện sâu sắc tình yêu mến của nhà văn đối với quê hương đất nước. 2. Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà. Nếu thiên nhiên sông Đà được tô đậm đến mức phi thường thì hình ảnh người lái đò trên sông Đà cũng được miêu tả trong tư thế kì vĩ nhất. Ông lái đò người Lai Châu, quê ngã tư sông cát tỉnh, đã xuôi ngược sông Đà suốt mười năm liền. Giữa ông và dòng sông có một mối gắn kết đặc biệt sâu sắc, nó vừa là kẻ thù số một, sẵn sàng quật ngã, nhấn chìm vừa là người bạn hết sức thân thiết đối với ông. Những thương tích sau mỗi cuộc chiến đấu ác liệt còn in đậm trên cơ thể ông như những chứng tích oai hùng vừa đau thương lại vừa rất đáng tự hào. Ông lái đò là người rất am hiểu về dòng sông. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình. Ông nắm chắc từng nguồn mạch, từng ngọn thác, từng khe đá,.. Ông nắm vững quy luật của dòng sông và luôn có phương án tốt nhất trong mỗi cuộc chiến với dòng sông này. Mỗi cuộc vượt thác đối với ông là một chuyến đi tràn đầy cảm hứng. Sự nguy hiểm đầy chết chóc của dòng sông trở thành niềm đam mê bất tận trong suốt cuộc đời ông. Ông muốn chiến đấu và chiến thắng con quái thú ấy nhiều lần, làm thỏa mãn khát vọng chinh phục. Bởi thế, trên nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một dũng tướng tài năng và phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác. Sau mỗi cuộc vượt thác ngoạn mục, ông lại thơi thả neo thuyền và ung dung đốt lửa trại, bàn tán về cá anh vũ. Qua nhân vật người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa đậm nét bức chân dung của con người lao động với niềm hiên ngàng, khí phách, oai hùng, kì vĩ, vừa tài hoa vừa hiền lành, dung dị trong cuộc sống nơi miền núi thẳm. Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám uyên bác, tài hoa, tìm cái đẹp từ trong cuộc sống hiện tại của nhân dân lao động, câu chữ gọt giũa tinh xảo, câu văn giàu hình ảnh. Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” Władysław Broniewski “Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” Lượt đoạn đầu Tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của …
Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA TẬP TÙY BÚT SÔNG ĐÀ NGUYỄN TUÂN Luận văn tốt nghiệp Ngành SƯ PHẠM NGỮ VĂN Giáo viên hướng dẫn Trần Văn Minh Sinh viên Dương Minh Thùy Mã số 6075384 Lớp Sư phạm Ngữ Văn 02-K33 Cần Thơ, 5/2011 1 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy PHẦN MỞ ĐẦU 1. L ý d o c h ọ n đề t à i Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác. Ông là người đi tiên phong trong thể văn tùy bút và đưa nó phát triển đến đỉnh cao rực rỡ. Trước khi khẳng định tên tuổi của mình ở thể tùy bút, Nguyễn Tuân từng là một cây bút viết phóng sự, truyện ngắn… Đọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mĩ từ nghệ thuật ngôn từ mà c ò n đ ư ợ c b ồ i d ư ỡ n g t h ê m t r i t h ứ c v ề n h ạ c , h ọ a , đ i ê u k h ắ c , k i ế n t r ú c , l ị c h s ử, điện ảnh… Thực tế ấy chứng minh Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú và có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật . Xưa nay, giới phê bình nghiên cứu chỉ nói nhiều về Nguyễn Tuân ở những khía cạnh khác nhau như phong cách nghệ thuật độc đáo hay Nguyễn Tuân - nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa; Nguyễn Tuân và thể tùy bút… Thiết nghĩ, Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có vị trí quan trọng trên văn đàn văn học Việt Nam. Cho nên, sẽ thật thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua bất kì tác phẩm nào cũng như những giá trị đặc sắc trong tác phẩm của ông . Chọn đề tài “Giá trị nhân văn của tập tùy bút Sông Đà” chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu toàn diện sự nghiệp sáng tác của tác gia văn học này. Đây là một đề tài hoàn toàn mới nên thật sự tạo được hứng thú, hấp dẫn cho người nghiên cứu . 2. L ị c h s ử v ấ n đề Với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, một phong cách riêng độc đáo, văn chương Nguyễn Tuân luôn là đề tài gây nên sự chú ý và lôi cuốn, hấp dẫn đối với người đọc. Đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến sáng tác của Nguyễn Tuân Tuân trong đó Nguyễn Đăng Mạnh là người nghiên cứu Nguyễn một cách khá toàn diện và sâu sắc. Các bài viết của ông đã cung cấp cho người đọc cái nhìn bao quát về Nguyễn Tuân từ thân thế, sự nghiệp đến quan điểm nghệ thuật, đặc trưng thể loại, nghệ thuật ngôn từ… Bên cạnh đó, khảo sát về tác gia Nguyễn Tuân còn có Phong Lê, Phan Cự Đệ, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan… 2 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy Ngoài phần giới thiệu chung về quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân, mỗi người lại chú ý đến những khía cạnh tiêu biểu khác nhau. Chẳng hạn, Phong Lê nhấn mạnh đến cái tôi và thể loại tùy bút, Phan Cự Đệ tập trung nêu bật phong cách nghệ thuật qua việc phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân qua các thời kì. Vương Trí Nhàn có nhiều bài viết nhưng ông đặc biệt nghiêng về phương diện đề cao thể tùy bút. Song song, Nguyễn Tuân được mệnh danh là “Nhà nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy”; “Người đi tìm cái thật, cái đẹp”…đã được nhắc đến nhiều lần trong các bài viết của Nguyễn Đình Thi, Hà Minh Đức, Hoài Anh … Qua rất nhiều bài viết về Nguyễn Tuân, nhận thấy chưa có nhà phê bình nào viết về giá trị nhân văn của tập tùy bút “Sông Đà”, có chăng chỉ là một vài nhận xét sơ lược được lồng vào các bài viết ở những khía cạnh khác nhau khi nghiên cứu về Nguyễn Tuân. Nguyễn Đình Thi trong bài viết “Người đi tìm cái thật, cái đẹp” đã nhận định “Tôi nghĩ rằng có lẽ trong những trang viết của Nguyễn Tuân ở dưới sâu của những cái bề nổi gai góc hoặc phiêu lãng, ở đằng sau những sự ngoa ngoắt và cả khinh bạc của một thời ngột ngạt, quẩn quanh,tù túng, bế tắc, ở dưới sâu tất cả những cái ấy là sự đi tìm cái đẹp và đi tìm cái thật, là nỗi khao khát cái đẹp và nỗi khao khát cái thật, là lòng yêu cái đẹp và yêu cái thật với sức mạnh muốn phá hết mọi ràng buộc,khuôn sáo có sẵn …” [11,45] hay ý kiến của Phong Lê khi nhận xét về Nguyễn Tuân trong tùy bút “Cách mạng đã đem lại cho Nguyễn Tuân một quan điểm mới trong cách nhìn nhận người và việc. Cuộc kháng chiến chống Pháp và cải cách ruộng đất đã làm thay đổi phần lớn tình cảm anh. Những trang “Tùy bút kháng chiến” và “Sông Đà” đã dần dần cho thấy Nguyễn Tuân mới, khác biệt, gắn bó, gần gũi và yêu thương người lao động” [11,161]. Nhận xét này đã khẳng định một sự chuyển biến rõ rệt trong suy nghĩ cũng như quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Ở bài viết “Đọc Sông Đà của Nguyễn Tuân”, Trương Chính có dề cập đến tập tùy bút “Sông Đà”, ông xem đây là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Nguyễn Tuân “ Đọc xong Sông Đà của Nguyễn Tuân, tôi cảm thấy khó lòng nói hết được tình người, chất thơ và sự sống bao hàm trong bấy nhiêu trang giấy.”[16,117] 3 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy Nguyễn Đăng Mạnh có nhắc đến tùy bút Nguyễn Tuân như sau “Đặc điểm của tùy bút là giàu chất trữ tình. Nghĩa là tác giả được phép trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ của mình, thông qua cái “tôi” chủ quan mà phản ánh hiện thực” [7,153]. Trong Sông Đà, có lúc ông cảm thấy tâm hồn lai láng “muốn đề thơ vào sông nước”. Thực ra, “Sông Đà” như tùy bút, bút kí khác của Nguyễn Tuân viết về thiên nhiên đất nước, chính là những áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ngợi ca Tổ Quốc ta giàu đẹp. Hoài Anh viết về Nguyễn Tuân và cái đẹp đó là cái đẹp không mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng lặng mà là cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi dữ dội “Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam. ” [20,85] Các nhà nghiên cứu văn học luôn có cái nhìn bao quát từ những góc nhìn chủ quan dựa trên nền tảng khách quan đã tìm hiểu, khám phá văn chương Nguyễn Tuân ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Châu trong bài viết “Như một ông lão thợ đấu”có nêu Nguyễn Minh “Nguyễn Tuân nói “Xòe” và sông Đà cũng là nói về công việc đang làm, ta đang làm, nói về nghệ thuật, nghệ thuật nào, vẻ đẹp nào cũng phát sinh ra từ trong đau khổ và khó nhọc và nguy hiểm nữa. Không bao giờ có nghệ thuật chân chính mà không có khó nhọc của lao động, như người chở đò vượt thác sông Đà.” Những nhận xét trên cho thấy có nhiều ý kiến phê bình, nhận xét và chú ý đến tùy bút Nguyễn Tuân cũng như đặc sắc của tập tùy bút “Sông Đà”. Tuy nhiên, giá trị nhân văn của tập tùy bút “Sông Đà” các nhà nghiên cứu vẫn chưa thật quan tâm, chưa khảo sát một cách sâu sắc, cụ thể và có tính hệ thống . 3. M ục đ í c h n g hi ê n c ứ u Nghiên cứu đề tài “Gía trị nhân văn của tập tùy bút “Sông Đà” mục đích trước hết là thấy được giá trị của một tác phẩm tiêu biểu cho thời kì Nguyễn Tuân thay đổi quan niệm nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ. Từ đó, chúng ta cảm, hiểu sâu hơn về Nguyễn Tuân, con người ngông nghênh, ngạo đời nhưng ẩn đằng sau ấy là cả một tấm lòng ưu ái đối với quê hương đất nước . Song song, khảo sát đề tài này người viết có khả năng rèn luyện năng lực thẩm mĩ ở nhiều phương diện phát hiện cái đẹp, thưởng thức cái đẹp và 4 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy sáng tạo cái đẹp…Sau nữa là góp phần nào đó vào quá trình nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân một cách sâu sắc, toàn diện. 4. Đ ố i t ượ ng v à p hạ m v i n g h i ê n c ứ u + Đối tượng nghiên cứu là tập tùy bút “Sông Đà” của tác gia Nguyễn Tuân . + Phạm vi nghiên cứu là “ giá trị nhân văn ”, một bình diện giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm. 5. P h ươn g p h á p n gh i ê n c ứ u Trong đề tài “Giá trị nhân văn của tập tùy bút Sông Đà” chúng tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây + Phương pháp hệ thống + Phương pháp so sánh + Phương pháp phân tích + Phương pháp chứng minh + Phương pháp giải thích + Phương pháp bình luận + Phương pháp tổng hợp, khái quát Các phương pháp này không tách rời mà được kết hợp, bổ sung cho nhau để làm nổi rõ từng khía cạnh nội dung đề tài. Người viết trình bày rõ nhận thức của bản thân. Từ đó có cơ sở lý luận thẩm mĩ chặt chẽ, vận dụng hiệu quả trong cách giải quyết vấn đề. 5 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG IMỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1 . 1 . K h á i ni ệ m c h ủ n g h ĩ a n h â n v ă n Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, cảm, tình phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt vị trí, vai trò, khả năng, bản chất, .. trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại.[4, 250] Thế giới được sáng tạo ra trong văn học nghệ thuật và bằng văn học nghệ thuật từ xưa đến nay là một thế giới mà trong đó con người luôn luôn đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm người mãnh liệt và cao đẹp của mình. Lòng yêu thương ưu ái đối với con người và thân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Khi nói rằng “ Văn học là một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của m ì n h , n h ữ n g n g ườ i s ả n s i n h r a c h ủ n g h ĩ a n h â n v ă n ” , c h í n h M a c x i m G o r k i đã sử dụng khái niệm chủ nghĩa nhân văn trên cấp độ này. Ở cấp độ lịch sử Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy sinh ở Italia và một số nước khác ở châu  u thời kì Phục Hưng thế kỉ XIV-XVI. Những người khởi xướng trào lưu này thường được gọi là các nhà nhân văn , các nhà thơ người Italia như Pêtơrăcca 1304-1374, Bôcaxiô1313-1375, chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm không phải thần linh mà con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, họ chủ trương đi sâu nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của 6 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy văn hóa cổ đại Hy Lạp - La Mã đã bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ nhằm khôi phục những giá trị nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con người.[4,251] Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng là một bước ngoặc quan trọng trong quá trình “giải phóng tinh thần và tự ý thức” của nhân loại. Từ thời Phục Hưng trở về sau, trong văn học nghệ thuật, chủ nghiã nhân văn đã bước sang một giai đoạn phát triển mới từng bước gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng con người về các phương diện chính trị x ã h ộ i v à c á c p h ươ n g d i ệ n k h á c t h u ộ c n h i ề u l ĩ n h v ự c h o ạ t đ ộ n g c ủ a đ ờ i s ố n g . Nó trở thành lý tưởng thẩm mĩ có sức định hướng cho những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật và quy định bản chất của mỗi nền văn học nghệ thuật . Trong sáng tác văn học nghệ thuật, hình thái và mức độ biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn hết sức phong phú, đa dạng, độc đáo. Vì thế, khi tiếp nhận tác phẩm văn học không nên lược quy những giá trị nhân văn của nó vào những mệnh đề chung trừu tượng mà phải tìm ra những sắc thái biểu hiện tinh tế, độc đáo, cụ thể trong thái độ và cảm xúc thẩm mĩ của tác giả đối với con người và cuộc sống. 1 . 2 . M ộ t s ố b i ể u h i ện c ủ a c h ủ n g hĩ a n h â n v ă n t r o n g c á c t á c p h ẩm v ă n c hươ n g Chủ nghĩa nhân văn trong sáng tác văn học nghệ thuật, có mức độ biểu h i ệ n v à h ì n h t h ức h ế t s ứ c p h o n g p h ú , đa dạng. Trước nhất, nó thể hiện ở tình yêu thủy chung, chân thành xóa mờ bóng đen u ám bởi những hủ tục, g ô n g x i ề n g g i a i c ấ p . C a n g ợ i ý c h í , n g h ị l ự c p h i t h ườ n g c ủ a c o n n g ư ờ i c ù n g những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, trân trọng vẻ đẹp văn hóa truyền thống dân tộc chính là những biểu hiện phần nào của chủ nghĩa nhân văn. Khi nói đến văn học thời Phục Hưng, ta không thể không nói đến Uyliam Sêchxpia 1564-1616, một nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và cả thế giới. Ông đã để lại 37 vở gồm kịch lịch sử, bi kịch và hài kịch, phần lớn là kiệt tác của văn học nhân loại, mang đậm lý tưởng nhân văn, một trào lưu tư tưởng tiến bộ với nội dung chính là đề cao, ca ngợi, khẳng định con người, lấy con người làm chuẩn mực đo lường muôn loài và 7 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy thế giới. Đặc biệt, “Rômêô và Giuliet”, vở bi kịch nổi tiếng dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù giữa hai dòng họ Montaghiu và Capiulet tại Vêrôna Italia thời Trung cổ đã làm thổn thức bao trái tim trên khắp thế giới. Vở bi kịch thể hiện sự xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt v ớ i h o à n c ả n h t h ù đ ị c h v â y h ã m. Đ ạ i d i ệ n c h o d ò n g h ọ M o n t a g h i u l à c h à n g trai Rômêô; nàng Giuliet thuộc dòng họ Capiulet. Hai dòng họ này mâu thuẫn nhau rất gay gắt và mối thù truyền kiếp giữa họ sẽ không thể phá vỡ được nếu như không có tình yêu. Rômêô và Giuliet đã thổi bùng lên ngọn lửa thủy chung, khẳng định sức sống, sức vươn dậy trong bất kỳ hoàn cảnh trói buộc con người; họ đã yêu nhau - một tình yêu vượt lên mọi thù hận, Sêchxpia ca ngợi vẻ đẹp của tình người và tình đời theo lý tưởng chủ nghĩa nhân văn chỉ có tình yêu thương trân trọng mới làm con người gần nhau, gắn bó, mới thắp lên ánh sáng về một chân trời, một tình yêu tự do và một cuộc đời hạnh phúc. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân viết không nhiều nhưng được xem là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng. Ông rất sành về cảnh quê, người quê, về thế giới của hương đồng gió nội cộng với tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết vô cùng sâu sắc, cảm động. Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn bộc lộ một quan niệm nhân văn cao đẹp, ấy là khi nhà văn phát hiện vẻ đẹp kỳ diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, chăm sóc, yêu thương nhau và hy vọng vào một ngày mai tươi sáng. Mối quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong “Vợ nhặt” mà dồn về phía khác, quan trọng hơn, từ bóng tối của hoàn cảnh cái đói kinh hoàng đã q u é t đ i x ấ p x ỉ g ầ n m ộ t p h ầ n m ư ờ i d â n s ố t r ê n đ ấ t n ư ớ c V i ệ t N a m. K i m L â n muốn làm tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức trah hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang rạng ngời của chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động. Thành công ở nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của những con người như anh Tràng, bà cụ Tứ và cả người đàn bà nọ … trong một hoàn cảnh quá khác thường. Biết vượt lên hoàn cảnh là vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế “vượt hoàn cảnh” ấy đã t ạ o n ê n n ộ i d u n g đ ộ c đ á o t r o n g t á c p h ẩ m. T h ô n g đ i ệ p c ủ a K i m L â n l à t h ô n g 8 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy điệp mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrôpki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ “Hãy biết sống cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”, “Vợ Nhặt” quả là bài ca về tình người ở những mảnh đời tột cùng của cảnh đói nghèo nhưng họ đã “biết sống” như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt, ghê gớm như một hiểm họa của dân tộc. Cũng trong giai đoạn nền văn học có sự chuyển mình dưới ánh sáng lãnh đạo của Đảng; Mùa lạc – mùa vui – đúng như cái tên của nó, “Mùa lạc” của Nguyễn Khải rút trong tập truyện ngắn cùng tên của tác giả, xuất bản 1960 ra đời nằm trong mạch cảm hứng lạc quan chung của văn học đương thời vốn tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống mới, con người mới. Nói “Mùa Lạc” ta không thể không nói bằng chính cô Đào. Đào là tất cả “Mùa lạc”, “Mùa lạc” nằm trong Đào. Viết về cuộc sống mới trên mảnh đất chiến trường lịch sử, nhà văn không đi vào những vấn đề của việc phục hồi sản xuất mà tập trung soi rọi quan hệ giữa người với người. Họ đã từ những nẻo đường khác nhau đến nơi đây, chung sức lao động bền bỉ, sáng tạo để xây dựng, kiến thiết Tổ Quốc. Nhà văn đặc biệt chú ý đến số phận nghiệt ngã của những cảnh đời không may mắn, từng chịu nhiều đau khổ, mất mát về vật chất lẫn tinh thần trong xã hội cũ. Cô Đào, một phụ nữ mất cả chồng, mất cả con, nghèo, xấu, không nhan sắc, đòn gánh trên vai tất tả ngược xuôi lăn lộn kiếm sống, không chút hy vọng gì ở tương lai, không trông mong có hạnh phúc …Những đau khổ và bất hạnh ở người phụ nữ này là bởi xã hội ngày trước và những tàn dư của nó còn khá dai dẳng trong chế độ mới đang bước đầu dựng xây. Số phận của Đào đã thay đổi, cuộc đời của Đào không đi vào ngõ cụt bởi vì Đào đã được sống trong một hoàn cảnh mới, sống giữa một môi trường trong sạch lành mạnh – nông trường quân đội Điện Biên Phủ và những người chiến sĩ có phẩm chất tốt đẹp, giàu lòng nhân ái. Truyện “Mùa lạc” khẳng định rằng sự thay đổi số phận những con người như Đào, Duệ chỉ có thể có được ở một môi trường lành mạnh, trong đó hình thành mối quan hệ mới tốt đẹp hơn giữa người với người; ở đó có sự quan tâm, sẻ chia đến từng mảnh đời “bé nhỏ” và những khát vọng chân chính của mỗi con người; đặc biệt là với những con người từng chịu nhiều thiệt thòi, mất mát, đau đớn, bất hạnh. Trong truyện, môi trường ấy chính là nông trường Điện Biên, nơi từng là chiến trường ác 9 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy liệt hủy diệt mọi sự sống, nay lại là nơi đang hồi sinh cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho những tâm hồn, những số phận từng bị vùi dập, thương tổn. Từ số phận cụ thể của những con người riêng biệt, tác phẩm “Mùa lạc” đã gợi ra vấn đề có ý nghĩa rộng lớn về con người và khát vọng hạnh phúc, về ý nghĩa nhân văn cao cả của sự nghiệp xây dựng xã hội mới trong việc hồi sinh những trái tim rỉ máu, thiệt thòi, tàn héo. Đến đây, ta nhớ một luận điểm rất nổi tiếng của Cacmac “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của mọi người, của toàn xã hội”. Đúng vậy, “Mùa lạc” là mùa vui của cuộc sống mới – một cuộc sống phải vật vã vươn lên từ cái chết. “Mùa lạc”còn là mùa vui của tâm hồn con người, nơi mà người đọc được chứng kiến cuộc hành trình kỳ diệu của cô Đào đi từ “thung lũng đau thương” của số phận cá nhân đến “cánh đồng vui” của cuộc đời mới . Gía trị nhân văn không chỉ biểu hiện ở việc ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi tinh thần, nghị lực của con người, ý chí của con người vươn lên trong cuộc sống mới qua cảm quan của các nhà văn, nó còn biểu hiện ở phương diện đề cao văn hóa truyền thống, tinh hoa dân tộc. Một đất nước có truyền thống đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm; một đất nước có nền văn hiến hơn bốn ngàn năm với những con người tài hoa xuất chúng đi cùng với bao áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn; ”Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi; “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt… đã làm nên những giá trị tinh thần vô cùng quý báu, tôi rèn trong mỗi trái tim con người Việt Nam ý thức trách nhiệm, lòng tự hào dân tộc . Với tấm lòng thành kính, xót xa trước vẻ đẹp một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng, nhà văn Nguyễn Tuân đã bày tỏ tình yêu tha thiết của mình đối với giá trị văn hóa của dân tộc trong “Vang bóng một thời”. Đó là những thú chơi tao nhã của các ông Nghè, ông Cử nghệ thuật uống trà trong s ư ơ n g s ớ m, n g h ệ t h u ậ t u ố n g r ư ợ u , đ á n h t h ơ , t h ả t h ơ … Đ ó l à p h o n g t ụ c v i ế t câu đối đỏ chúc tết nhau trên hè phố của những ông đồ xưa “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. 10 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay” “Ông đồ”- Vũ Đình Liên Năm tháng trôi đi và lịch sử cũng bước sang trang mới nhưng trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam hôm nay, cả ngày hôm qua nữa luôn nhớ mãi hình ảnh một cái tết cổ truyền của dân tộc với cành hoa đào – món quà đầu xuân, với hàng câu đối đỏ trước hiên nhà, với ấm trà lài thơm ….Tất cả như nhắc nhở ta đừng bao giờ quên cội rễ, nếp sống, nếp nghĩ tự bao đời trong văn hóa truyền thống của ông cha trước cơn lốc vô tình nghiệt ngã của thời gian. Tình yêu thương, gắn bó, cảm thông đối với những số phận bất hạnh; tin tưởng vào ý chí, nghị lực vượt qua mọi khổ đau của con người trong cuộc sống, thiết tha với văn hóa, tinh hoa dân tộc….ấy là cái nhìn nhân văn cao đẹp trong cảm xúc thẩm mĩ của từng nhà văn đối với con người và cuộc sống . 1 . 3 . N g u y ễn T uâ n v à t ậ p t ù y b út “ S ô n g Đ à ” 1 . 3 . 1 . T á c g i a Ng u y ễ n T u â n Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại phố Hàng Bạc –Hà Nội. Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan – một trong những vị tú tài Hán học cuối cùng của nước ta. Ông còn được gọi là cụ Tú Hải Văn – một nhà nho “bất đắc chí”. Cụ Tú Hải Văn chán chường trước thời cuộc, bởi thế cụ sống ngông nghênh, bất cần đời và thích đi đây đó cho thỏa chí. Chính tư tưởng, nếp sống ngông nghênh, bất cần của cụ Tú Hải Văn đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong Nguyễn Tuân ngay từ lúc nhỏ. Nguyễn Tuân thích đi ngao du để thỏa mãn và trốn đi sự chán chường trước xã hội với những con người hãnh tiến xu thời. Tuy quê ở Hà Nội nhưng thuở thiếu thời Nguyến Tuân sống nhiều ở các tỉnh miền Trung. Ông học hết trung học ở Nam Định. Tại đây, năm 1929 ông tham gia một cuộc bãi khóa, kết quả ông bị đuổi học cùng với thông báo cấm không được nhận vào làm việc trên toàn Đông Dương. Cùng đường, Nguyễn Tuân và một số bạn bè vượt biên sanng Thái Lan thì bị bắt trở về 11 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy Thanh Hóa 1930. Được thả ra Nguyễn Tuân vào Nam trái phép và tiếp tục bị bắt. Từ năm 1942-1945, Nguyễn Tuân ngày càng rơi vào bế tắc và có ý định tự sát. Cách mạng tháng Tám thành công đã tác động, cứu sống con người và trang viết Nguyễn Tuân. Từ năm 1946, Nguyễn Tuân cùng đoàn nghệ sĩ vào công tác tại khu V Trung Bộ. Đến năm 1950, Nguyễn Tuân gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ông được bầu làm tổng thư kí Hội văn nghệ Việt Nam trong mười năm từ 1948-1958. Ông mất vào 18-07-1987 tại Hà Nội. Năm 1996, ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1. Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh thần ấy được thể hiện ở những khía cạnh sau Nguyễn Tuân yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, yêu quý những kiệt tác văn chương dân tộc “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm khúc” cùng những sáng tác của Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Tú Xương … Ông còn yêu nhạc điệu của lối ca trù dân dã mà tha thiết của giọng hò Quảng Trị, Thừa thiên, Nam Bộ, yêu phong cảnh quê hương, đất nước. Ông yêu những thú vui tao nhã của người xưa nghệ thuật uống trà, chơi chữ, đánh thơ…và yêu cả những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt . Ý thức cá nhân của tác gia văn học này rất cao, viết văn trước là khẳng định cá tính độc đáo, ông không chấp nhận những cái khuôn sáo, tầm thường mà luôn tìm kiếm, đơn điệu khẳng định điều mới mẻ, khác lạ, đặc biệt. Ông rất thích đi và thích đọc. Đây là hai yếu tố góp phần hình thành vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng của Nguyễn Tuân. Không chỉ có vốn từ tiếng Việt phong phú, đa dạng Nguyễn Tuân còn có khả năng vận dụng linh hoạt và tinh tế chúng trong các sáng tác kết hợp với kiến thức sâu rộng về hội họa, điêu khắc, sân khấu điện ảnh ….Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, đòi hỏi người nghệ sĩ phải sống và làm việc hết mình. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân 12 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy • Ngọn đèn dầu lạc 1939 • Vang bóng một thời 1940 • Một chuyến đi 1941 • Chiếc lư đồng mắt cua 1941 • Tàn đèn dầu lạc 1941 • Một chuyến đi 1941 • Tùy bút 1941 • Thiếu quê hương 1943 • Tóc chị Hoài 1943 • Tùy bút II 1943 • Nguyễn 1945 • Chùa Đàn 1946 • Đường vui 1949 • Tình chiến dịch 1950 • Thắng càn 1953 • Chú Giao làng Seo 1953 • Đi thăm Trung Hoa 1955 • Tùy bút kháng chiến 1955 • Tùy bút kháng chiến và hòa bình 1956 • Truyện một cái thuyền đất 1958 • Tùy bút Sông Đà 1960 • Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi 1972 • Ký 1976 • H ư ơn g v ị c ả n h s ắ c đ ấ t n ư ớ c 1 9 7 8 1 . 3 . 2 . Q u a n ni ệ m c ủ a N g u y ễn T uâ n v ề c á i đẹ p Nguyễn Tuân đến với nghệ thuật bằng cái “áo khoác duy mỹ” ngay từ buổi đầu. Ông tôn thờ cái đẹp trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình, luôn đi tìm và ngợi ca cái đẹp. Trước cách mạng tháng Tám 1945, do ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội, Nguyễn Tuân đề cao cái tôi chủ quan đến mức bất chấp tất cả. Quan niệm về cái đẹp vô cùng chủ quan đôi khi trái ngược với xã hội. Ông cực đoan và tuyệt đối hóa cái đẹp chủ quan nên bỏ ngoài tai những lời góp ý, nhắc nhở mà chỉ đi theo con đường mà mình đã chọn. Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp của 13 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy thời xưa còn vương lại và gọi đó là vẻ đẹp “Vang bóng một thời”. Đó là những thú vui tao nhã uống trà, uống rượu “thạch lan hương”, đánh thơ, thư pháp…Tất cả những vẻ đẹp ấy thể hiện qua “những con người thuộc lớp nhà n h o b ấ t đ ắ c c h í t u y t h u a c u ộ c n h ư n g c h ưa c h ị u l à m l à n h v ớ i x ã h ộ i t h ự c dân”. Trong “Thiếu quê hương”; “Chiếc lư đồng mắc cua”; “Tùy bút I, II”, Nguyễn Tuân viết về đề tài “xê dịch” và đời sống trụy lạc, ông viết để bày t ỏ t ấ m l ò n g g ắ n b ó t h i ế t t h a c ủ a m ộ t t r í t h ứ c y ê u n ướ c “ s i n h l ầ m t h ờ i ” đ ố i với quê hương đất nước. Khi viết về cái “Tôi” trong hoang mang, trong đàn hát, rượu, thuốc phiện, trang viết của nhà văn “đôi khi vút lên” một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh nghệ thuật. Sau cách mạng tháng Tám, trang viết của Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào khai thác cái đẹp của thực tại cuộc sống, của người lao động, của đất nước. Đó là những trang viết thể hiện sự đấu tranh trong chính bản thân người nghệ sĩ để hướng tới cái đích Chân – Thiện - Mỹ; là những thước phim phản ánh cuộc đấu tranh, xây dựng của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến cũng như trong giai đoạn hòa bình. Với “Vô Đề ”, “ Chùa Đàn ”, “Ngày đầy tuổi của tôi cách mệnh”, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự “lột xác” từ bỏ con người cũ đến với cách mạng. Tiếp đó, người đọc gặp Nguyễn Tuân trên các nẻo “Đường vui”, “Tình chiến dịch”. Cái “Tôi” và chủ nghĩa “xê dịch” giờ được cảm nhận trong hướng tiến bộ, tích cực. Cái “Tôi” hòa nhập với cộng đồng chân thành, hồn nhiên Nguyễn Tuân đi khai thác những cái đẹp ngay chính trong những con đường mình đã đi qua. Cái đẹp của đất nước, con người Viêt Nam hiện lên rõ nét nhất trong tập “Sông Đà”. Một nhà nghiên cứu đã viết về tập tùy bút “Sông Đà” “Đọc “Sông Đà”, thấy trữ lượng cái đẹp – chất vàng mười của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới quả là nhiều vô kể…” Sau đó, Nguyễn Tuân một mặt tiếp tục khai thác vẻ đẹp đất nước – con người Việt Nam, truyền thống văn hóa Việt Nam, một mặt viết về cuộc đấu tranh của nhân dân ta để đi đến thống nhất nước nhà với tác phẩm tiêu biểu “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” 1972; “Ký” 1976; “Hương vị cảnh sắc đất nước” 1978. Tóm lại, cả đời sống và tư tưởng Nguyễn Tuân từ cách mạng tháng Tám trở về sau có sự thay đổi rõ rệt. Nội dung tác phẩm cũng có sự thay da đổi 14 Luận văn tốt nghiệp thịt. Vẫn là cái đẹp, Dương Minh Thùy c á i t h ậ t đ ó n h ư n g đ ã đ i s â u v à o t h ự c t ạ i v à l ựa c h ọ n những tinh túy của thực tại để phô diễn với đời . 1 . 3 . 3 . V à i n é t v ề t ậ p t ùy bú t “ S ô n g Đ à ” “Sông Đà” gồm cả thảy mười lăm bài tùy bút, tập trung xoay quanh một chủ đề duy nhất. Tác giả lấy miền Tây Bắc làm mục tiêu cho những cuộc đi của mình và làm cái cớ để nói lên tâm tình của mình được sống trong chế độ mới. Đọc “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, Trương Chính đã nhận xét rằng “… tôi có cảm tưởng như là đọc một tập du kí của một nhà thơ tìm lòng người ở giữa một khu vực nhỏ trên non sông Tổ quốc rộng lớn của chúng ta đang được cải tạo tiến lên xã hội chủ nghĩa”[16, 117] Ở tập tùy bút “Sông Đà”, người đọc có thể tìm thấy tất cả những gì cần phải viết về miền Tây Bắc cảnh Điện Biên lịch sử sau ngày hòa bình, kiến thiết, tỉnh lị Lai Châu, tỉnh lị Sơn La, các di tích l ị c h s ử, c á c n h à t ù đ ế quốc, cây đào cộng sản, một bản mèo trên núi đá, các khe nước biên thùy Lào – Việt, con sông Đà “ nằm lọt giữa các thảm đá, các giường đá Tây Bắc ”, rồi Than Uyên, Quỳnh Nhai là những nơi đem hết sức mình ra để góp phần vào công cuộc kiến thiết …mỗi nơi đi qua như thế là một dịp để cho nhà văn tâm tình. Những điều mắt thấy tai nghe còn làm cho Nguyễn Tuân nhớ đến “dĩ vãng đau xót, tưởng đến tương lai huy hoàng”. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân hiện lên rực rỡ với muôn sắc màu. Viết về cái đẹp vốn là sở trường và niềm say mê của nhà văn. Con sông Đà thật nên thơ và gợi cảm “ con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mà khói núi Mèo đốt nương xuân”, vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây được gắn kết với vẻ đẹp trong tâm hồn con người, Nguyễn Tuân muốn đi tìm “cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và vững bền”. Bên cạnh những trang văn đầy ánh nắng của cuộc sống mới, “Sông Đà” cũng nặng suy nghĩ về quá khứ một thời. Ngòi bút Nguyễn Tuân đặc biệt sắc sảo khi viết về nỗi đau thương ngày trước. Những trang sách trong bài “Xòe” chứa đựng tài liệu của một cuốn tiểu thuyết não nùng điển hình cho biết bao 15 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy cuộc đời cũ các dân tộc Tây Bắc, từ những ngày bị vùi dập khổ đau đến những ngày được chiếu rọi ánh sáng của Đảng. Ở tùy bút “Một tí về lịch sử và một bản lý lịch”, Nguyễn Tuân nói đến Đèo Văn Long và gia đình hắn. Đèo Văn Long hiện lên như một nhân vật phản diện sắc nét, hình ảnh tăm tối của nó có tác dụng như những đường viền đen làm rõ thêm cái màu sáng của cuộc đời Tây Bắc ngày nay. Trong cái đêm dài mà bọn thực dân và tên họ Đèo trùm lên Tây Bắc, Nguyễn Tuân soi lên ánh sáng của những “hoa đào cộng sản” Sơn La, ánh sáng đôi mắt của người thanh niên Thái Lò Văn Gía, người đã đưa đường cho các đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Hiểu về với phong trào cách mạng đang rực cháy năm 1943. “Sông Đà” – đấy cũng là điều quen thuộc của Nguyễn Tuân – một tác phẩm về non sông đất nước với “Tây Trang”, “Đất cũ Sơn La”, “Phố núi”,…Nguyễn Tuân nói đến đất nước một cách trân trọng, Nguyễn Tuân yêu đến cái gian khổ, khó khăn của từng mảnh đất, một tình yêu nồng mặn như tình yêu vợ chồng. Không những thế, Nguyễn Tuân yêu châu Than Uyên cằn cội, bịt bùng có cái thứ gió được xếp hàng thứ ba sau ruồi vàng, bọ chó ngang bằng tình yêu Quỳnh Nhai màu mỡ…Tập tùy bút “Sông Đà” được xem là tác phẩm tiêu biểu cho thời kì Nguyễn Tuân trở thành một con người đúng đắn, nhẹ nhàng, tự do sống trong chế độ mới. 16 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy CHƯƠNG II TẬP TÙY BÚT “SÔNG ĐÀ” – BỨC TRANH THIÊN NHIÊN “HUNG BẠO VÀ TRỮ TÌNH” MIỀN TÂY BẮC 2 . 1 . Sứ c h út c ủa c ả nh q u a n g t h i ê n n hi ê n 2 . 1 . 1 . Vẻ đ ẹp t hơ m ộ n g , t r á n g l ệ Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận đối với các nghệ sỹ. Hầu hết các nhà văn, nhà thơ đều quan tâm tới đề tài này. Đặc biệt là nhà văn chuyên viết tùy bút như Nguyễn Tuân. Nhà văn khao khát đi tìm để phát hiện và ngợi ca cái đẹp của quê hương đất nước. Việt Nam ta được xem là xứ sở rừng vàng biển bạc; quê hương của những đồng lúa bạt ngàn; những rừng cây nhiệt đới xanh tươi bốn mùa; là đất nước có biết bao danh lam thắng cảnh nổi tiếng không chỉ của quốc gia mà còn là di sản thiên nhiên thế giới. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương có truyền thống đấu tranh hào hùng cùng với nền văn hiến hơn bốn ngàn năm đã hun đút tâm hồn tài hoa, tài tử Nguyễn Tuân một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt đối với đất nước và con người Việt Nam. Nguyễn Tuân luôn có ước muốn cháy bỏng là được học hỏi nhiều điều, đi đến nhiều nơi và quen biết nhiều người. Ông đi khắp đất nước và trải lòng ra với mọi miền quê của Tổ quốc để yêu thêm thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương mình. Qua tập tùy bút “Sông Đà”, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên “hung bạo và trữ tình” rất thực, rất sống động. Tình yêu non sông xứ sở; tinh thần dân tộc của Nguyễn Tuân gắn bó với tình yêu thiên nhiên, gắn với cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp vùng cao Tây Bắc. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Tây Bắc là một bộ phận hùng vĩ và giàu đẹp của Tổ quốc. Nếu trong thơ Tố Hữu, Điện Biên hiện lên như một “huân chương trên ngực” “ Kháng chiến ba ngàn ngày Không đêm nào vui bằng đêm nay Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực Trên đất nước như huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!” 17 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy “Hoan hô chiến sĩ điện biên” thì trong văn Nguyễn Tuân, Điện Biên hiện lên như một bức tranh sơn mài hay một cuộn phim màu thật sắc nét “Núi Quỳnh Nhai đẹp như núi trong tranh ảnh, trong men sứ. Quỳnh Nhai có năm xã dọc sông và một xã rừng sâu Mường Giơn, nhưng núi của toàn châu đều là núi đẹp cả. Sông đẹp, núi đẹp, cả một con đò, cả mày mắt vóc dáng cô đò đều rất tạo hình” [19,638]. Thiên nhiên thì tuyệt đẹp, tài nguyên thì càng giàu có. Ngay cả châu Than Uyên đèo heo hút gió cũng vô vàn là của cải “Than Uyên có nhiều thứ mỏ. Mỏ xi măng thiên tạo ở chân dãy núi Hoàng Liên Sơn ngất giời một đỉnh Phan Tây Pan cao nhất Tổ quốc chúng ta. Mỏ đá thạch anh để làm thủy tinh ngũ sắc và làm đồ sứ. Mỏ diêm sinh trắng ở rất nhiều hang dơi khổng lồ sâu thẳm. Mỏ diêm sinh vàng, suối ngùn ngụt sôi khói. Mỏ than mỡ ở những quãng núi sạt ở Pu Khì. Mỏ chì M ường Khoa. Mỏ lân tinh ở chỗ cánh đồng Cáp Na, vớt lên cạn là cháy xanh lè lè lại phải dìm xuống suối…” [19,623] không chỉ ở Than Uyên mà cảnh phố núi Lai Châu cũng thật đẹp làm sao! Lúc gần tan buổi chợ chiều, núi đã bắt đầu nhả nhanh cái hơi sương lạnh của Tây Bắc lặn mặt giời; cảnh núi non trùng trùng điệp điệp và réo rắt tiếng thác nước dòng sông càng làm cảnh thiên nhiên Tây Bắc thêm trữ tình, thơ mộng cùng những con người đang dũng cảm đem sức lao động và sự sáng tạo của mình ra xây dựng Tây Bắc ngày một giàu đẹp hơn. Nguyễn Tuân quan sát thiên nhiên toàn cảnh và vẽ lại bằng ngôn từ một cách rất chính xác. Như một người tham lam, cầu toàn, vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Tây Trang được ông miêu tả trong nhiều vùng không gian, nhiều khoảng thời gian khác nhau. Vào buổi sáng nó mang nét đẹp của cơn gió mùa xuân, buổi chiều nó mang nét đẹp của nắng biên thùy và đặc biệt khi miêu tả ánh trăng cùng những chùm sao trên nền trời đêm Tây Trang, người nghệ sỹ tài hoa Nguyễn Tuân lại nhìn thấy được một bức tranh phong cảnh lung linh đẹp lạ thường “Sao bủa đầy trời như mặt bể nổi lân tinh, vòm trời cao trong vắt như một bầu pha lê mùa đông. Những chùm sao run run như muốn né tránh cái gió lào bốc ngược lên từ mặt đất biên giới. Vòm pha lê lóe điểm sao chùm đang ngân trả lại mặt đất cái ì ầm của gió núi. Sóng núi dập dờn trong sương buốt và nhấp nhô trên cánh đồng đá” [19,452] 18 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy Tây Bắc quả thực là đẹp - đẹp hiểu theo nghĩa sông và núi; gió; nắng nhiều màu sắc, nhiều khối hình. Cảm hứng với thiên nhiên luôn tồn tại trong tâm hồn Nguyễn Tuân, đi đến nơi đâu, nhà văn cũng có thể cảm và chụp được những mảng không gian tuyệt đẹp; cũng nhìn thấy được vẻ đẹp ẩn kín của thiên nhiên. Đó là vẻ đẹp “sơn thủy hữu tình” của nước và núi Lai Châu; nơi đây “chỗ nào cũng đều như là cắm được giá vẽ xuống mà vẽ ngay tại trận”. Khung cảnh thơ mộng, trữ tình với núi lớp lớp mênh mông như biển đá, sông trắng xóa như từng súc lụa trong trải ra, những thung lũng lúa chín vàng chóe lên, trên đó mây trắng điểm lơ lửng như thêu nổi… Và hoa, bao nhiêu là thứ hoa hoa gạo đỏ, hoa ban, hòa mận trắng, hoa lau tia tía, hoa chẩu, hoa đào… “Trên những vạt nương phù dung a phiến Mèo, hoa Mèo xanh, hồng phấn, tím, vàng, đỏ, đỏ cánh sen đỏ lửa lựu đang gọi ong mùa xuân đến lấy nhụy cao nguyên về luyện mật tổ” [19,627]. Nếu ta hiểu thêm về một phương diện của tâm hồn Nguyễn Tuân đối với cảnh trí non sông đất nước ta sẽ càng thêm yêu mến quê hương Tây Bắc nói riêng, rộng lớn hơn là yêu mến Tổ quốc Việt Nam thân thương; ta sẽ càng thêm yêu những “đặc sản” trong thiên nhiên và trong đời sống sinh hoạt của dân tộc… Rõ ràng, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi rất tích cực; sự chuyển biến về nhận thức và cái nhìn của nhà văn đối với cuộc sống, con người ấm áp, đôn hậu hơn. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân vì thế mà bớt dần đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp nhân văn một cách chân chính và tiến bộ; nhà văn đã thực sự giác ngộ giai cấp, giác ngộ chủ nghĩa xã hội. Vì thế, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân thực sự đã có những phẩm chất mới. Cái đẹp đã đi vào bản chất cuộc sống. Xưa kia, Nguyễn Tuân đến với thiên nhiên là để lẩn tránh, để trốn đời. Ngày nay, dù đứng trên đỉnh núi Hoàng Liên Sơn gió gào, mưa thét Nguyễn Tuân vẫn “nghe đồng vọng tiếng bơi chèo, mái chèo” của những đoàn biểu tình trên dòng kênh tiến về thị xã Cà Mau. Với tấm lòng yêu quý và tự hào về thiên nhiên, về non sông đất nước, nhà văn Nguyễn Tuân đã đem hết bút lực của mình làm bậc nổi lên vẻ đẹp giàu có, thơ mộng, trữ tình nhưng cũng rất hùng vĩ của đất nước Việt Nam. Những bức 19 Luận văn tốt nghiệp Dương Minh Thùy tranh thiên nhiên được vẽ lên trong tập tùy bút “Sông Đà” bộc lộ một ý nghĩa tư tưởng và thẩm mỹ nhất định. Cái đẹp của cảnh sắc non sông dọc đường xê dịch của Nguyễn Tuân trước kia thường lạnh lẽo và buồn bã. Còn cái đẹp của thiên nhiên sau này gắn liền với ý nghĩa nhân văn cao đẹp- gắn liền với những con người dũng cảm, nhiệt tình hăng say xây dựng đất nước. Thiên nhiên trong “Sông Đà” được Nguyễn Tuân miêu tả rất chi tiết, rất thực và vô cùng sống động. Nhà văn đã đi tìm cái đẹp và cái thật đến tận cùng, sắp xếp chúng vào một chỉnh thể không dễ phân chia. Tập tùy bút “Sông Đà” thực sự đã mang đến cho người đọc cái nhìn tổng hợp và sự ngạc nhiên đến bất ngờ về một nhà văn có độ am tường rộng lớn cùng sự tinh tế, nhạy bén diệu kỳ. Những trang văn viết về hoa gạo Điện Biên, Gió Than Uyên cùng núi đường khúc khuỷu Mã Pí Léng… thật xứng đáng hiện diện khi nói về cảnh sắc quê hương. Trong cuộc sống đầy gian lao, khổ ải của những con người miền Tây Bắc; màu hoa gạo đỏ đã góp thêm “cái lộc” mùa xuân năm mới; góp thêm cái tươi vui, ấm áp bởi thứ hạnh phúc chín lành đi mãi tới nhiều triển vọng sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn; để cho thiên nhiên trở nên thơ mộng và dịu dàng hơn “Trên con đường ngoại thành Hà Nội, trên những cành lộc bên đường, những đàn chim những đàn sáo sậu, con uyên con ương đang hát, hát đến đâu thì hoa gạo bay đến đấy xuống lòng đường, như những chùm ngọc lựu của một thứ hạnh phúc chói thắm chín lành” [19,476]. Thật xúc động biết bao khi ta thấy được tấm lòng tri ân sâu sắc và lòng biết ơn thành kính của nhà văn đối với những con người đã hy sinh, những anh hùng đã đem sương máu ra đổi lấy tự do trong cuộc sống yên vui hôm nay. Đó là suy nghĩ về việc trồng những cây hoa gạo ở lối vào nghĩa trang liệt sĩ “Hoa gạo nghĩa trang vẫy lên trên, sẽ điểm lên bầu trời Điện Biên một thứ màu thắm tươi nó đúng là cái màu nhiệt huyết của anh hùng và chiến sĩ, những người không chết được, những người sống vĩnh cửu trong lòng chúng ta” [19,483]. Vẻ đẹp của hoa gạo trong thiên nhiên đã song hành cùng với vẻ đẹp trong tâm hồn con người say mê, nặng lòng với non sông Tây Bắc. Con người nhiều cảm xúc ấy mong muốn những ai đã từng dũng cảm sống với mảnh đất Tây Bắc, hoạt động ở khắp chiến trường Tây Bắc hay những anh 20
I. Tìm hiểu chungHoàn cảnh sáng tác– Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập Tuỳ bút sông Đà 1960, gồm mười lăm bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.– Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng Chủ đề– Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”.– Qua Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới chất vàng mười của đất nước trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài Lí do Nguyễn Tuân chọn sông Đà làm đối tượng miêu tả– Sông Đà là con sông có nét riêng độc đáo mà các sông khác không cóChúng thuỷ giai đông tẩuĐà giang độc bắc lưu.Mọi dòng sông đều chảy về hướng ĐôngChỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc.– Và để làm nổi bật các ngôn từ nóng bỏng sự sống trong văn Nguyễn Tuân, để rồi khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đầy đủ với sự đối chọi giữa hai tính cách “hung bạo và trữ tình” của sông sông độc lạ thích hợp với ngòi bút độc Đọc – hiểu Hình tượng con sông Vẻ hung bạo, dữ dộiCảnh đá bờ sông “dựng vách thành”– Hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của vách núi như thành cao, vực thẳm, như hào sâu.– Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, như mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.– Cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.– Miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Mặt “ghềnh Hát Loóng”– Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Những “cái hút nước” trên sông Đà– Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong hình ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa cống cái bị sặc, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.– Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.– Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi… tan xác ở khuỷnh sông dưới.– Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Thác đá sông Đà– Thác đá khi ở xa+ Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người khi “oán trách”, “van xin”, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, khi “rống lên”. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.+ Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông, vừa miêu tả khoảng cách ngắn dần của người quan sát của thác đá sông Đà – và có lẽ đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, kì thú.+ Những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tuợng đặc biệt sống động của thính giác, thị giác.– Thác đá khi ở gần+ Khi thác đá hiện ra, sau câu văn ngắn như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú Tới cái thác rồi, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác với sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi dữ dội, lại gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.+ Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện… là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền.+ Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “thạch trận”, “cuộc giáp lá cà”, “hàng tiền vệ”, “boong-ke”, “pháo đài”… một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập mặt sông rung tít như thác nước reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gãy… thúc gối… đội thuyền… đánh miếng đòn độc hiểm… tóm lấy thuyền… khuýp quật vu hồi… khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của một trận nước vang trời thanh la não bạt… Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn hoang dại trong hình ảnh dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông, thần đá.+ Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự “xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh thằng đá tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng… Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ chiếc thuyền của đối phương, khi dàn sẵn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con người Vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn; vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn; vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…Þ Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhân hóa là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của thứ kẻ thù số một của con Vẻ thơ mộng, trữ tìnhCảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tuợng mạnh mẽ bởi sự tương phản – trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản đã hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả, bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái bến cát, khi những bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn xèo xèo tan trong trí nhớ, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.– Hình ảnh sông Đà tuôn dài+ Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất vừa như mô phỏng sự “tuôn dài” của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển… Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông.+ Cách so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, và cũng không hề làm mất đi sự hùng vĩ của dòng sông. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương Cách miêu tả của Nguyễn Tuân dẫn tới sự khẳng định vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim người nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của “đất nước Tổ quốc bao la”, sau nữa là vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan điểm thẩm mĩ Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường.– Màu sắc của sông Đà+ Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà còn được hiện ra qua sắc màu đầy biến ảo khi vì niềm say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách công phu và tinh tế. Màu sắc của dòng sông được miêu tả trong những thời điểm khác nhau với những sắc thái khác nhau, khi là dòng xanh ngọc bích trong sáng, quý giá, êm nhẹ của mùa xuân, khi lừ lừ chín đỏ vào mùa thu – những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng êm đềm, điềm đạm và chậm rãi của con sông chở nặng phù sa thượng nguồn.+ Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa đầy đe dọa của một dòng sông vẫn năm năm báo oán đời đời đánh ghen với con Vậy là ngay cả khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ tình của dòng sông, hình ảnh về một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của một nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.– Con sông Đà gợi cảm+ Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.+ Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và trước hết là để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy là cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát…+ Khi liên tưởng mặt sông giống như cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ lệ cú” của Lí Bạch Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Liên tưởng của nhà văn đã làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm của Đường thi.+ Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, không kịp bình tĩnh quan sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi khát khao.+ Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và sự nối lại giấc mơ càng hi hữu hiếm quý bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn, ông cũng có thể đến với người cố nhân của mình, vậy mà qua so sánh vui như nối lại chiêm bao đứt quãng có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, lần nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất.+ Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai, đến một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kì.– Sắc thái lặng tờ hoang dại+ Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng Thuyền tôi trôi trên sông Đà… Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa hề có dấu vết của con người. Tính từ “lặng tờ” lặp lại tới hai lần, cùng câu văn mang ý nghĩa khẳng định Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi khiến cho sự “lặng tờ” của con sông Đà dày thêm, không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà còn vì cái thăm thẳm của thời gian.+ Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng làm dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng mơ, tiêu điều của cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ và trong chính thế giới ấy, người đọc đã nhận ra rõ hơn sự lặng tờ hoang dại của một dòng sông trong trẻo êm đềm.+ Sự yên ả êm đềm tới mức mơ hồ của sông Đà khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm hơn bởi những hình ảnh thật nhỏ bé mong manh trong không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú, mấy búp cỏ gianh đẫm sương đêm và nhất là được gợi tả giữa âm thanh dịu nhẹ của tiếng đàn cá dầm xanh quẫy nước.+ Đặc biệt nhất là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, cất tiếng hỏi nhà văn bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành… Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác như nhà văn đang lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, không có thực của thế giới cổ tích. Ảo giác mãnh liệt tới mức nhà văn bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa, để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới hiện thực, là con người trong nền văn minh hiện đại. Có lẽ không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự lặng tờ hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như trong lời ao ước của Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông quá đỗi êm đềm.– Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái “tôi” trữ tình của nhà văn đã trực tiếp xuất hiện qua những lời kể hào hứng Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân… tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu…; trong những lời cảm thán nồng nàn Chao ôi, trông con sông vui như… Chao ôi, thấy thèm được… Vậy là, bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và uyên bác còn có một Nguyễn Tuân đam mê dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung như tình nhân, như cố nhân…; khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ sông Đà, bãi sông Đà, khi lại say sưa như muốn tan hòa vào thế giới bát ngát của dòng sông và nhất là luôn lai láng niềm mong ước được đề thơ vào sông việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, với việc sử dụng lối hành văn đầy biến hóa độc đáo và giàu sức gợi tả, với việc vận dụng tri thức tổng hợp của những loại hình nghệ thuật khác nhau, Nguyễn Tuân đã miêu tả, bộc lộ cảm xúc và xây dựng thành công hình tượng dòng sông Đà trong hai sắc thái hung bạo và trữ tình. Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa uyên bác của mình khi miêu tả dòng Hình tượng người lái đò trên sông 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, đó là những vẻ đẹp vang bóng một thời thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc. Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau năm 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò sông Đà trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn trí dũng.* Bối cảnh cho ông đò xuất hiệnNgay khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã có ý thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào với hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… một không gian của những hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách thành bí ẩn thâm nghiêm.* Lai lịch và ngoại hình người lái đòÔng lái đò Lai Châu bạn tôi, quê ông ở ngay ngã tư sông, năm nay đã bảy mươi tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.* Vẻ đẹp tài hoa trí dũng của con ngườiVà để khắc họa vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng ngoan cường, đó cũng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch trận của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn. Những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như dàn sẵn trận địa… dụ thuyền đối phương… đánh khuýp quật vu hồi… đã nhân cách hóa dòng sông khiến cho thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hãn, hiểm ác như một thứ kẻ thù số một của con người. Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm, méo mó, xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh… một loạt những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắn, nhanh, dồn dập nước thác reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gẫy… đá trái… thúc gối… đội thuyền… bám lấy thuyền… rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả nước xô đá, đá xô sóng… hay sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… Tất cả đã làm hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức mạnh thiên nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé. Thiên nhiên sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để đưa con thuyền vượt thác sông Đà khúc thượng nguồn, những người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng dông, trong đó, vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn… vòng hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn… vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống… lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…Þ Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông.* Vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò trong trận thủy chiến với sóng thác sông Đà– Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng – đây vẫn là cách miêu tả thông qua cảm giác quen thuộc của Nguyễn Tuân – vết thương đau đớn của ông đò đã dược thể hiện bởi cảm giác toé đom đóm và rát bỏng như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.– Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá… Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi nắm chắc bờm sóng… ghì cương… phóng nhanh vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ mặt từng đứa trong bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp. Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi… cho thấy những biện pháp kì diệu của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài hoa con người thậm chí đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.– Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm “vút… vút”… qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với cách so sánh về một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.– Những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dịGiỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh khắc; khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, người lái đò lại đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bịn dịn khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày. III. Tổng kết.– Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách ấy, tác phẩm đã thực sự thành công khi phát hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng mười quý giá trong tâm hồn, tính cách những người lao động bình dị miền Tây Bắc.– Tùy bút Người lái đò sông Đà đã trở thành một thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Với quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tích cực của Nguyễn Tuân, người lái đò nơi thượng nguồn Tây Bắc thực sự là một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng sông nước khi hàng ngày phải chiến đấu và luôn phải chiến thắng thiên nhiên bằng trí tuệ, sự khéo léo, sức mạnh và lòng can đảm của mình.
MỞ BÀITHÂN BÀI1. Đôi nét khái quát về tùy bút “Người lái đò Sông Đà”2. Phân tích lời đề từ3. Vẻ đẹp của sông ĐàCảnh đá bờ sông. Cảnh mặt ghềnh Hát Loóng. Cảnh những cái hút nước. Cảnh những cái thác nước. Cảnh những trùng vi thạch trận vi thứ nhấtĐến trùng vi thứ baĐặc sắc nghệ thuật khi miêu tả cong sông Đà hung bạob. Con sông Đà trữ tình. Hình dáng con sông Đà. Màu nước sông Đà. Con sông Đà gợi cảm. Cảnh sắc hai bên bờ sông. Kết bàiĐất nước Việt Nam ta với trăm sông, nghìn núi. Biết bao nhiêu con sông đã bước vào thơ ca, khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ. Trong số những dòng sông ấy, ta phải kể đến con sông Đà. Nó là đối tượng cảm hứng của các bậc tao nhân mặc khách nhưng có lẽ đến với Nguyễn Tuân, sông Đà mới thực sự trở nên chân thực, sống động. Là nhà văn cả đời theo chủ nghĩa duy mĩ, trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Sau Cách mạng tháng Tám , Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái đẹp ở ngay trong cuộc sống đời thường của nhân dân lao động. Ông gọi đó là “chất vàng mười đã qua thử lửa” còn theo Nguyễn Minh Châu đó là “viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn của con người Việt Nam”. Toàn bộ vẻ đẹp ấy ánh lên trong thiên tùy bút “Sông Đà” sáng tác năm 1958 – 1960 với linh hồn là bài kí “Người lái đò sông Đà”. Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự nở hoa trên dòng sông văn chương của BÀI1. Đôi nét khái quát về tùy bút “Người lái đò Sông Đà”“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà năm 1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Phân tích lời đề từ– Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông! Wladyslaw Broniewski – Ba Lan Nhà văn đã mượn câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tiếng hát trên dòng sông có thể là tiếng hát của người chèo đò, kéo thuyền, vượt thác, tiếng hát thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu đắm say, tha thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.– Chúng thủy giai đông tầu – Đà Giang độc bắc lưu Nguyễn Quang Bích Hai câu thơ chữ Hán đã đề cập tới một nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng Bắc – đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời tìm kiếm cái Đẹp và sự độc đáo. Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò sông Đà không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là văn phong đầy sáng tạo của một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái Tôi cá nhân, về Bản Ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ Vẻ đẹp của sông ĐàNói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của Nguyễn Tuân vì con sông Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất với nhau. Ở phần thượng lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội. Nhưng ở hạ nguồn, nó lại toát lên một vẻ đẹp rất trữ tình, thơ mộng. Con sông Đà hung hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh“Đường lên Mường Lễ bao xaTrăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”Ca daoSự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây đá bờ hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn. Cảnh mặt ghềnh Hát như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lóong. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà. Cảnh những cái hút cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn. Cảnh những cái thác thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế – kẻ thù số một của con người. Cảnh những trùng vi thạch trận hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu vi thứ nhấtSông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!Đến trùng vi thứ baÍt cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh sắc nghệ thuật khi miêu tả cong sông Đà hung bạoViết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái Đò Sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.” Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sông La “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước ở cổng châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai cùng gỗ Chò Vẩy, Chò Hoa trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào “kẻ thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến tột sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với thác dữ, những luồng chết, vực xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua. Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một phong cách rất “ngông”.b. Con sông Đà trữ tình. Hình dáng con sông Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ đẹp tòan diện của con sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình. Nó biết mềm mại, uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm cho mình trở nên dịu dàng, nữ Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một câu văn với nghệ thuật kết cấu trùng điệp và cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái tóc tuôn dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩn hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân với những chùm hoa ban với sắc trắng, sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn và cảm nhận, con sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái tóc dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu trắng khi bước những bước chân ngập ngừng, e ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ mộng và trữ tình hơn khi ví dòng sông Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ đang thẹn thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa mà còn là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp, một cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh“Cổ tay em trắng như ngàĐuôi mắt em sắc như là dao cauNụ cười như thể hoa ngâuCái khăn đội đầu như thể hoa sen”Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như áng tóc của người thiếu nữ. Màu nước sông Sông Đà còn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy được sắc xanh như màu xanh của sông Đà là hiếm và khác biệt với nhiều dòng sông khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu của sông Đà tự thân nó không thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của con sông. Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt người đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà giận dỗi được ngay. Không chỉ có tính cách đa dạng mà chúng ta thấy sông Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy tự thay tấm áo đã cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn thay đổi, luôn tự làm mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Con sông Đà gợi Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông“vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Với nghệ thuật so sánh cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình đối với con sông của miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một con người đối với một con sông mà đó là xúc cảm của những “cố nhân” sau bao ngày xa cách. Niềm vui ấy như tiếng cười giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh giấc và giờ đây lại được nối lại. Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình nhân chưa quen biết”. Cảnh sắc hai bên bờ sông. Sông Đà còn có những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Cái lặng lẽ của thanh bình, yên ả mà có lẽ bất cứ một tâm hồn khó tính nào cũng muốn ở trọ nơi những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Chút hoang dại của lịch sử đất nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mơ mộng gửi theo những câu chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên bờ sông Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp trong mùa xuân với sự sống đang cựa mình, sinh sôi. Thực và mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà văn có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Đó là niềm mong ước của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó để phục vụ con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn?Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng thời vô cùng kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của “thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến 14 câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn có thể dễ dàng chuyển thẳng những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng sông Đà ở hạ lưu thành những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Phong cách nghệ thuật này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến đây, ta lại bắt gặp ở nhà ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân một phong cách nghệ thuật tương tự.* Tình yêu đất nước thầm kín của NT. Khi viết về sông Đà, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn, là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước Cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”. Đó là nỗi lòng của những con người “sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy mình thiếu quê hương.” Còn nói như Chế Lan Viên“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng Cách mạng đã rọi chiếu vào tâm hồn của nhà văn, phù sa của nhân dân đã bồi đắp cho văn chương của nhà văn. Ông đứng giữa dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc qua từng câu chữ. Không yêu sao được khi ông đến với Đà giang, viết về một con sông hùng vĩ, ông đã đọc hàng trăm trang cổ sử, hàng trăm trang “Dư địa chí”, đọc biết bao nhiêu áng thơ trữ tình của Tản Đà, của Lí Bạch, của Nguyễn Quang Bích,… nhưng viết về Đà giang, Nguyễn không bị lệ cổ, không bị tập cổ, không bị ảnh hưởng bởi người xưa mà đã tái tạo mới trên từng trang viết vì nói như Nam Cao “Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.”Kết bàiĐà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng vô cùng mĩ lệ, trữ tình và vô cùng lãng mạn. Hai tính cách ấy đặt bên cạnh nhau nhưng không hề bài trừ nhau mà lại tôn vinh nhau, khiến con sông Đà trở nên chân thực sống động, cựa mình trên trang viết. Quan trọng hơn, đằng sau dòng sông ta thấy hiện lên một bức chân dung của một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương đất nước; một Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân dân bồi đắp; một Nguyễn Tuân với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua timHồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”Như vậy, Nguyễn Tuân viết bài kí “Người lái đò sông Đà” bằng một tâm hồn rộn ràng tiếng chim như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt. Rõ ràng ông là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương.🔻 Xem thêmPhong cách Nguyễn Tuân trong “Người lái đò Sông Đà”Hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”Đọc Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân
tùy bút sông đà 1960